Thứ Năm, 16 tháng 10, 2014

“MƯA DẮT NGANG CHIỀU” QUA MỘT RỪNG TỪ LÁY



“MƯA DẮT NGANG CHIỀU” QUA MỘT RỪNG TỪ LÁY
(Nhân đọc tập thơ “Mưa dắt ngang chiều” - Nxb Hội Nhà văn 2014 của Lâm Bằng) 
                                                           

          Để có bài thơ hay, người làm thơ phải tìm được tứ thơ độc đáo, tình thơ sâu lắng để từ đó triển khai câu chữ chuyển tải ý tưởng, tình cảm của mình. Công đoạn sắp xếp ý tứ, chọn câu, chọn từ thuộc về kỹ năng, nghệ thuật của từng người. Cũng tứ ấy, tình ấy nhưng người này được bài thơ hay, người khác thì chỉ được bài thơ nhàn nhạt, không tạo được ấn tượng gì. Làm thơ là nghệ thuật sử dụng câu chữ. Mỗi câu, mỗi chữ phải cân nhắc, chọn lọc sao cho đắc địa, trở thành “mắt thơ” làm cho câu thơ lấp lánh. Nhiều câu thơ lấp lánh sẽ có được bài thơ hay.
          Tập thơ “Mưa dắt ngang chiều” (Nxb Hội Nhà văn - 2014) của tác giả Lâm Bằng - Trưởng phòng Trị sự, biên tập viên tạp chí Xứ Thanh, Phó Trưởng Ban Thơ Hội VHNT Thanh Hóa là một tập thơ dụng công tu từ và đạt được hiệu quả khá rõ rệt. Anh có nhiều tứ thơ độc đáo, cảm xúc trào dâng khi viết, đến độ mê mị, nhưng anh lại rất tỉnh táo trong việc tu từ, chọn những từ đắt nên tập thơ rất ám ảnh. Bao trùm cả tập thơ là nghệ thuật dùng từ láy, mà lại là những “từ láy độc” nên bài thơ nào trong tập cũng hay, cũng ấn tượng, khiến người đọc phải ngỡ ngàng. 

          Tất cả 66 bài thơ trong tập anh đều sử dụng từ láy một cách chọn lọc độc đáo. Có bài câu nào cũng có từ láy, đọc mà sởn da gà. Câu chữ tượng thanh, tượng hình làm cho người đọc như cầm được, thấy được, nghe được cảnh ấy, tình ấy của tác giả. Ngay bài đầu tiên của tập đã có những câu đáo để như thế này:
          Đồng tháng mười ngun ngút lúa
          Thị giác nông phu rờ rỡ
          Gió thiếu nữ mơn man bờ cỏ
          Mưa nắng bỗng già nua
Hay “Tháng năm/ Ràn rạt lưỡi liềm...”; rồi “Tháng Tám sầm sập/ Nước đồng ràn rụa hõm sâu khóe mắt nông phu/ Ràn rụa nhánh đòng ở cữ/ Tháng Chín len lét mưa nắng thở dài/ Thính giác đổi ngôi/ Khóe mắt trở trăn tiếng sấm”. Mấy câu sau còn mấy từ rờ rỡ, ngút ngát nữa.
Những ngun ngút, rờ rỡ, mơn man, ràn rạt, sầm sập, ràn rụa, len lét, trở trăn, ngút ngát là những từ láy rất gợi, rất mạnh mẽ. Vì thế mà bài thơ tạo được sự ám ảnh cho người đọc.
Ta đều biết từ láy là từ được tạo bởi từ hơn hai tiếng, trong đó có một tiếng gốc có nghĩa (thường là tiếng đứng ở vị trí đầu tiên) và một tiếng láy lại âm hoặc vần của tiếng gốc (thường là tiếng đứng sau). Từ láy cũng có hai loại: láy hoàn toàn (lặp lại cả âm lẫn vần của tiếng gốc: đo đỏ, xanh xanh, rầm rập, ...) và láy bộ phận (chỉ lặp lại hoặc âm hoặc vần của tiếng gốc: xanh xao, rì rào, mảnh khảnh, le te, ...). Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng và còn có loại ba tiếng. Tuy nhiên, loại đầu tiên là loại tiêu biểu nhất cho từ láy và phương thức láy của tiếng Việt. Lâm Bằng thiên về loại này. Có điều, anh chọn được những từ láy có cường độ mạnh, tạo nên sự độc đáo, mới mẻ của câu thơ.
Bài “Đồng sau bão” có các câu với các từ láy mạnh như thế này: “Lũ mồng két dáo dác”... “Nầu nẫu gốc rạ/ Răng gầy nhơn nhởn khóc cười/ cơ bắp nông phu bất chợt rệu rã/ Tướp táp mồ hôi góa bụa/ Hạt căng ngực thiếu phụ ngập ngụa bùn hoai”.
Hay bài “Làng tôi ngày lũ” cũng thế: “Phù du đỏng đảnh trăng liềm/ Gặm nhấm thời gian tướp táp/ Bầy ốc loi ngoi/ Cỏ tha hương hun hút đê dài/ Vểnh tai/ Gió đơn côi ràn rạt chái hè”... Rồi “nghèn nghẹn tiếng thở dài”, “đòn gánh tre tất tưởi lối sỏi khan”, “rạc cẳng cánh đồng làng ngập ngụa”, “làng phờ phạc sau bờ tre còm cõi”, “trăng rụt rè lũy tre đầu xóm”, “Làng/ Bì bõm, lều bều rác rưởi”, “Cần le te phù du nước hối/ Tép tôm lách tách vại chum”,hố mắt trũng sâu ngân ngấn nước”, “đồng làng đau đáu mắt nhìn/ Xa xăm mỏi mòn đồng bái/ Làng lênh đênh xống áo du miên”.            
Đây là bài “Cánh đồng làng tôi mùa lũ”: “Sau trận mưa đêm/ cánh đồng làng tôi sầm sậm nước sông/ ngọn lúa loi ngoi mặt nước/ dật dờ những mảng phù du”. Rồi với các động từ mạnh của đoạn 2: “Ngư phu túa ra/ chài lưới, vó bè vó tay...quờ quạng lòng sông như bầy kiến bâu vào vệt mỡ/ con cá quẫy mình/ phù du lép tépđớp mồi”. Tiếp là “ầng ậng nước mắt mùa màng”, “rừa rữa nước sông tháng tám” và 4 lần dùng từ láy “sầm sậm” trong một câu thơ dài đoạn gần cuối để kết một câu “Cánh đồng làng tôi rười rượi sau mưa”.
Nhan nhản tính từ mạnh, từ láy mạnh tạo nên hiệu quả tượng thanh, tượng hình làm cho câu thơ như cầm lấy được. Cảnh lụt lội, bão giông, mưa gió ở làng quê tác giả như hiện ra rành rành trước mặt. Rất dữ dội, rất tàn phá, rất tan hoang. Thì thế mới “rười rượi”, mới “mỏi mòn”, mới “tướp táp” mồ hôi, mới “phờ phạc” lo toan đó chứ. Phải quan sát tỉ mỉ, phải đầm mình trong mưa bão làng quê, phải có nghề mới viết được những câu thơ giàu hình ảnh, ấn tượng sâu sắc như thế.
Cùng với chủ đề làng quê này, Lâm Bằng còn có các bài thơ “Ký ức làng”, “Làng tôi dựng lại ngôi đình”, “Tháng Hai mùa hội”, “Đồng sau vụ”, “Cuối chạp”... đọc cũng rất ám ảnh. Anh sử dụng từ láy dân gian rất độc đáo, tạo nên hiệu quả tươi mới cho bài thơ.
Không chỉ nặng lòng với làng quê, với cánh đồng, Lâm Bằng còn trăn trở, suy tư trước bao cảnh đời ngang trái. Với con mắt của nhà thơ, bằng trái tim đa cảm, công cụ vẫn chỉ là những câu thơ giàu hình ảnh nghệ thuật qua các từ láy và những từ được chắt lọc, chọn lựa kỹ càng nhưng qua các bài thơ anh viết ta thấy được chính kiến, ưu tư, trăn trở của tác giả.
Đây là bài “Ghi ở quán karaoke”: “Nhầu nhĩ ánh đèn/ Nhầu nhĩ âm thanh/ Nhầu nhĩ khóe môi cong kẩy/ đêm rũ rượi/ chơi vơi ánh đèn đỏ xanh/ loa thùng rên rỉ/ thán khí ông ổng thoát thai/ Độ cồn du dương hưng phấn/ khẩu ngữ rểnh rang vào mùa vũ hội” để “hoa trái cuối mùa lòe loẹt/ ca nữ cũn cỡn xiêm y/ khăn áo te tua”... “nhập nhoạng không gian đặc quánh hơi men...”. Mở đầu bài thơ Lâm Bằng đã dùng lặp lại tới ba lần cặp từ láy “nhàu nhĩ” rồi sau đó là “rũ rượi”, “chơi vơi”, “rên rỉ”, “ông ổng”, “du dương”, “rểnh ráng”, “lòe loẹt”, “cũn cỡn”, “nhập nhoạng”. Đúng là một bức tranh sống động cả âm thanh và hình ảnh được Lâm Bằng vẽ bằng những câu thơ tài hoa như thế.
Còn đây là bài “Chợ” có những cảnh như thế này: “Lổn nhổn trái xanh/ Chát chát, chua chua gái dở/ Xống áo hững hờ/ Chợ đương đông...the thé mẹt trưa/ Nắng chéo rỡn rồ cua cáy/ Cột lều ngong ngóng bánh đa/ Xoàm xoạp, xoàm xoạp váy nâu té bụi/ Hàng/ cũn cỡn chạy xô/ Rau rấp rau răm lõa lồ nắng quái”. Kết thúc bài thơ, tác giả vẽ những hình ảnh này: “Khúc biến tấu cuối ngày lều bều rác rưởi/ ruồi nhặng đen xạm hoàng hôn/ Nhọc nhằn lao công...”. Lâm Bằng thật đáo để. Ngoa ngoắt vậy mà lại thơ mới tài chứ.
Cũng trong mảng đề tài này các bài “Ngẫu cảm Nguyên đán”, “Trọc phú”, “Vô cảm”, “Ám ảnh đường phố” cũng dày đặc các từ láy mạnh. Bài “Ngẫu cảm Nguyên đán” có những hình ảnh đối lập nhau rất ấn tượng. Anh cho “Booc-đô, sâm banh chễm chệ thánh đường/ Thánh đường lung linh/ Rốc, rap chạy ma-ra-tông” đối lập với “Thịt mỡ, dưa hành nem nép vại chum”, giữa “Xế hộp hồn nhiên đạp đất phú ông” với “Khuy bấm gia phong cuối mùa lả tả”; rồi thì “Cây đu ngơ ngác sân đình” đối lập với “Lai xâu cợt nhả khăn đỏ khăn xanh”; để kết là “Thịt mỡ, dưa hành nem nép vại chum/ Booc đô, sâm banh chễm chệ”... Thói kệch cỡm, đua đòi của cái cơ chế thị trường đã làm đảo lộn các giá trị đã được Lâm Bằng viết thành thơ, cảnh báo bằng thơ sắc sảo, chua xót đấy chứ.
Bài “Vô cảm” viết về cảnh tai nạn giao thông trên đường đọc đến rợn người. Trong lúc nạn nhân, sinh linh đồng loại đang bị “Tung tóe/ Những sinh thể bất tỉnh/ Những sinh thể nhầu nhĩ loang lổ hồng cầu/ Tướp táp thịt da” thì mọi người “Quần sinh xúm xít ngó nghiêng/ Lắc đầu/ lè lưỡi” mặc cho “Sinh thể quằn quại cô đơn”. Và anh phải kêu lên rằng: “Đầy rẫy những nhãn quan ráo hoảnh/ Đầy rẫy những đáy võng mạc khô khốc chai lỳ/ Cảm xúc vào hồi miễn dịch”. “Xúm xít ngó nghiêng”, “Nhầu nhĩ loang lổ”, hai cặp từ láy đúp này với những tính từ trong cụm “nhãn quan ráo hoảnh”, “võng mạc khô khốc chai lỳ” nói được nhiều điều lắm anh Lâm Bằng ạ. Thơ thế này thì vô cảm thế nào được?
Cụm bài thơ tình được Lâm Bằng chọn những từ láy cùng những tính từ mạnh cũng rất gợi cảm. Những “lả lơi”, thiêm thiếp”, “lướt khướt” (trong “Say”), những “bồng bềnh”, “nao nao” (trong “Đề ảnh II”), những “bồng bềnh”, “tưng tửng”, “ngất ngây” (trong “Du ca”), rồi thì “chầm chậm”, “rơm rớm”, “hoang hoải”, “rưng rức”, “thổn thức” (trong “Em -đề ảnh III”); hay “thỏ thẻ”, “khát khao”, “chòng chành”, “ngây ngất”, “lảo đảo” (trong “Trăng”). Gần như câu thơ nào cũng có từ láy. Những câu Rưng rức ngực đồng thiếu nữ”, “Trăng thỏ thẻ tuổi rằm” đọc mà sởn da gà về sự liên tưởng.
Chùm bài thơ về triết luận của anh cũng rất ấn tượng. Không đao to, búa lớn, không lên lớp giảng giải, chỉ bằng những tứ lạ, từ láy hay mà anh đã gửi gắm, chuyển tải được những điều muốn nói của mình. Những bài “Phiếm luận về sáng tối và sự khinh bỉ loài dơi”, “Đăng đàn”, “Khúc luân vũ của những giá trị”, “Sẽ là tội lỗi ở góc nhìn khác”, “Giảng giả”, “Dạ ký Noel”... là những bài như thế.
Tôi đã cẩn thận đọc, soi kỹ 66 bài thơ trong tập thì thấy tất cả các bài đều nhan nhản từ láy. Bài “An nhiên” viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngỡ tưởng không có từ láy, vậy mà vẫn có một từ “triệu triệu” ở câu cuối cùng: “Lá mang theo mình triệu triệu trái tim đau”. Đúng là một rừng từ láy nhấp nháy, lung linh trong “Mưa dăng ngang chiều” của anh.
Tập thơ này của anh gần như là sử dụng thể thơ tự do, ít vần. Cả tập chỉ có hơn 3 bài lục bát. Nói là hơn vì có một bài (Vu lan 2010) anh dùng đoạn cuối bằng thể thơ lục bát, còn đoạn trên cơ bản thì vẫn thể thơ tự do. 3 bài “trăm phần trăm” lục bát là các bài “Mẹ tôi”, “Em đi”, “Tên anh hòa với nước non ngàn trùng”. Phải chăng những bài này khá thiêng liêng, rất máu thịt với tác giả nên anh chọn thể thơ truyền thống, bản sắc dân tộc để chuyển tải tình cảm, ý tưởng của mình cho thêm gần gũi? Lục bát của anh nhuyễn, lại sử dụng từ láy đắt, tính từ mạnh nên càng gợi mở, ghi dấu ấn cho người đọc.
Thơ Lâm Bằng hay bởi những tứ mới, lạ, chắc và cách triển khai độc đáo của anh bằng những từ láy dân gian có chọn lọc, những tính từ mạnh đã làm cho những từ đó mới lên, đắc địa hơn, lấp lánh hơn. Phải thế chăng mà thơ anh tuy tự do, khấp khểnh, ít vần điệu mà vẫn ám ảnh, khắc sâu vào tâm trí người đọc? Nghiệp làm thơ được anh tự họa mình như người đẽo chữ trong bài thơ “Tự phu” với ba đoạn ngắn gọn, mỗi đoạn 4 câu, toàn những câu ngắn, với  những “muộn mằn”, “bạc phếch”, “nhọc nhằn” (Phu Một); “Nghuệch ngoạc”, “hý hửng”, “bồng bềnh” (Phu Hai); rồi “Ông ổng thoát thai” để ngỗng, ốc cùng vểnh tai nghe thì hình như... có cả tôi trong đó.
Đã đọc thơ anh nhiều trên các báo chí, song ở tập thơ này, tôi thấy một Lâm Bằng thi sĩ, sáng tạo, đáo để và thăng hoa. Tôi đã lạc đi miên man giữa rừng từ láy nhấp nháy, lung linh trong “Mưa dắt ngang chiều” của anh. Xin chia vui và chúc mừng thành công mới của Lâm Bằng. Mong được đọc những bài thơ, tập thơ hay và lạ hơn nữa của anh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét