Thứ Tư, 22 tháng 10, 2014

MÊ MẢI LẠC TRONG “LÔNG GÀ VÀ LÁ CHUỐI”



MÊ MẢI LẠC TRONG “LÔNG GÀ VÀ LÁ CHUỐI”

(Đọc “Lông gà và lá chuối” - Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh của Du An)

          Mỗi một người viết văn đều chọn cho mình một vùng đất để thể hiện trong văn chương. Hay nói chính xác ra chính vùng đất mà tác giả sinh sống đã ảnh hưởng, đã quyết định đến mạch nguồn cảm xúc, đến sắc màu tác phẩm văn học của mình. Vùng đất, nghề nghiệp của tác giả là những cái thể hiện rõ nhất, không thể giấu được, tạo nên sự thành công nhất qua mỗi trang văn của từng tác giả. Người ta thường gọi đó là dấu ấn vùng miền, dấu ấn nghề nghiệp. Sống thế nào thì văn thế ấy.
          Tập truyện ngắn “Lông gà và lá chuối’ (Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh - 2014) của Du An - hội viên Hội VHNT Điên Biên, có nhiều năm là giáo viên miền Tây Bắc cũng mang đậm dấu ấn vùng miền và nghề nghiệp của anh. Bao trùm xuyên suốt tập truyện là khung cảnh miền rừng núi Tây Bắc, là chuyện thầy trò vùng cao. 17 truyện ngắn trong tập thì truyện nào cũng “dính dáng” đến bản làng, nương rẫy và có đến 10 truyện viết về nghề giáo và giáo viên cắm bản. Hình ảnh thầy trò, trường lớp vùng cao với các góc cạnh được anh “cắp lớp”, “chiếu chụp” đưa thành truyện thật sinh động, hấp dẫn. 

          “Bồng bềnh Pú Cai” kể về một cô giáo mới tốt nghiệp trung cấp sư phạm được phân công về cắm bản. Với lòng tự tin có phần ngây thơ, trong trắng cô “cứ đi theo sự phân công”, không cần chọn “khu trung tâm” mặc cho ai đó gợi ý này nọ. Cô lên bản Pú Cai là bản của người Mông có 21 nóc nhà mà lớp học nằm trên một sườn núi “nghe nói ngày xưa trồng toàn thuốc phiện”. Và buổi lên lớp đầu tiên của cô thật buồn cười. “Cao thấp lố nhố học trò, véo von tiếng Mông, tiếng phổ thông. Có đứa cao lớn khềnh khàng. Có đứa bé tí nằm ngủ trên địu. Đứa có cặp siêu nhân như dưới phố. Đứa cầm mỗi cái bút. Chúng vòng trong vòng ngoài quây lấy tôi phấn chấn. “Cô giáo đẹp quá!”... Cửa lớp, ngoài sân rất nhiều phụ huynh đang xem... Tất cả nhìn tôi như tin, như không tin, xăm soi đằng trước, đằng sau...”. Du An đã vẽ cảnh ngày đầu tiên đi dạy của cô giáo trẻ thật sinh động. Phải sống ở vùng đó mới viết được như thế.
          Hình ảnh người giáo viên vùng cao thật đáng yêu và trân trọng biết nhường nào. Họ phải lo giữ học sinh cho đủ lớp, đi trong rừng đêm để vận động từng gia đình để ngày mai có học sinh đến lớp, phải lo chỗ ăn, chỗ ở cho học sinh khi chúng ở nội trú. Rồi lúc trò ốm, trò đau, hết gạo, hết tiền mà gia đình chưa kịp tiếp tế hoặc quá nghèo mà không tiếp tế được. Bao nhiêu khó khăn, họ đều vô tư vượt lên, nhận về mình những gian khó, cả tiếng xấu nữa để tất cả vì học sinh thân yêu.
          Tôi rất ấn tượng với truyện ngắn “Học trò nội trú”. Đóng vai là nhà báo tỉnh lẻ, có vợ là giáo viên, ở ngôi thứ nhất, tác giả - tôi, đã cho ta thấy hình ảnh những thầy, những cô dạy học ở một trường nội trú vùng cao thật đáng yêu. Trong các tình tiết của câu chuyện có tình tiết một cặp vợ chồng một anh bạn dưới xuôi đi du lịch vùng cao ở khách sạn mời vợ chồng nhà giáo, nhà báo này ra chiêu đãi. Vợ chồng anh phấn khởi đi gặp bạn. Bạn chiêu đãi toàn món ngon vật lạ. Đang ăn thì vợ anh lấy lý do “mai đoàn thanh tra phòng về dự” để kiếu về và bữa tiệc giải tán. Thế rồi, chị xin hai cái túi nilon để nhặt, để đổ cả đĩa thức ăn, cả nồi lẩu thừa vào mang về. Anh chồng xấu hổ quá “uống hết luôn chén trà, quay mặt đi che đậy”. Đêm đó, nhà báo bật máy, mở nhạc, gõ ào ào. Anh làm thơ con cóc. “Chẳng chữ gì ra cái chữ gì/ Chẳng việc gì ra cái việc gì. Người đâu không còn chút sĩ diện. Đeo cái mo vào mặt nhau gỡ bao giờ mới ra”. Thế rồi vợ anh đến đằng sau vớ chuột, tắt máy và...nói “Em mang thịt thừa lên cho chúng nó”. Tức là cho thằng Mua và thằng Sinh, hai học sinh của cô chiều nay vì đói quá, gục xuống chẳng học được. Thế là “bao dự định lên lớp, giảng bài về mình nghèo nhưng không được để người ta coi thường, về tự trọng, tư thế...tan biến hết trong cái chăn mùa đông” của anh nhà báo. Rồi chuyện anh nhà báo viết bài chống tiêu cực bị chính nhân vật lừa lại, lại là cơ hội để vợ anh định khai thác nguồn tài trợ của vị phó giám đốc sở tham nhũng nhưng cuối cùng thì hắn ta “xong vụ quên luôn”, còn vợ anh thì xin được món quần áo cũ của nhà hắn để phân phát cho học sinh của cô đang phải mặc những bộ quần áo vá. Qua mấy đêm đi trực thay vợ anh mới thấy hết cảnh học sinh ở nội trú thế nào. Và bài phóng sự “Tôi đi lùa trò” của anh đã gây được tiếng vang, tạo được dư luận tốt trong tỉnh. Đoạn kết truyện thật nhân văn, cảm động. Bức ảnh anh chụp chung với các cô giáo trong buổi tổng kết năm học do chính chị hiệu trưởng chụp bằng máy của anh, ảnh rất nét nhưng anh không dám rửa ra vì “Các cô giáo tươi tắn, tôi cũng cười. Nhưng thịt gà, thịt ngan, canh măng vẫn rõ nét ở những cái tay cầm bên dưới”. Anh nói chuyện với vợ hay là...ỉm đi thì vợ anh bảo: “Chẳng sao, đúng quá bao giờ chả ngại. Còn bao nhiêu quần áo cũ, lên bản bị ngã, cõng trò đi viện...chưa cho vào được, anh lo cái nỗi gì”. Một sự thật không biết nên buồn hay nên vui. Thương lắm những thầy cô giáo vùng cao.
          Truyện “Từ lâu không nói” kể về hai giáo viên, một nam, một nữ ở tập thể. Cô giáo nhiều tuổi hơn, lâu năm hơn. Thầy giáo trẻ, ít tuổi hơn, mới về. Mười ngày góp gạo thổi cơm chung. Những động chạm, những ánh mắt chỉ có hai người trong khu tập thể giữa rừng xanh núi thẳm. Cô giáo Cúc khát khao. Mỗi tuổi mỗi đuổi xuân đi. Trước khi thầy giáo trẻ tên là Hào đến, Cúc đã cặp với lão Bắc buôn trâu. Hào không nấu cơm chung với Cúc nữa vì anh muốn cho họ được tự nhiên. Thế nhưng Bắc chỉ là trăng gió khiến Cúc ngả hết về Hào. Cái đêm Hào và Cúc đi trong rừng để đến các gia đình vận động học sinh đến lớp suýt nữa thì họ nên chuyện với nhau nếu không vì...mùi tỏi. Rồi những ngày Hào chăm Cúc ốm. Và cuối cùng thì Cúc đành theo lão Bắc vì “còn ai nữa đâu mà chả gật”. Giáo viên cắm bản vùng cao với thầy giáo đã khổ rồi, với cô giáo trẻ càng khổ hơn. Quá lứa nhỡ thì thì “méo mó còn hơn không”. “Hôi nách hay mồm thối, không nghiện ngập, cờ bạc thì cưới đi”. Và Cúc cũng ở trong trường hợp ấy, đành là như vậy.
          Trong mảng đề tài này còn có các truyện Ăn ớt, Cô Quỳnh, Đang trôi, Lên cao thấy trời thấp thật, Mùa nương, Thần dược... Mỗi truyện một góc nhìn, một lát cắt. Những chấm phá trong cuộc sống người thầy mỗi vùng đất được Du An phác thảo qua nhưng nhân vật, tính cách, câu chuyện thì hiện lên thật rõ nét. Tâm lý nhân vật, những giằng xé nội tâm, những quyết định cuộc đời dưới ngòi bút của anh đã làm cho nhân vật tươi mới hơn, đáng yêu hơn. Ngay cái việc uống rượu cũng đã là quyết tâm, là sự hòa nhập của những giáo viên cắm bản rồi. Nam đã vậy, nữ cũng phải như vậy. “Thời gian ở đây đủ để Hạ biết rằng nếu không muốn thất bại thì cứ thật thà, hết mình. Mười chén, Hạ qua đỉnh, tỉnh”. Chính trong những cuộc rượu hết mình ấy là cơ hội để các giáo viên vận động các gia đình cho con em họ đi học (Trên nương, trang 183).
          Ngoài mảng đề tài dạy học ra, Du An còn có một số truyện ngắn ở những mảng đề tài khác, phong phú, đa dạng. Những câu chuyện xung quanh, được anh chắt lọc, chọn lựa, viết lên theo ý tưởng của mình. “Ăn ớt” kể về một thời gian khó, thiếu thốn, đói kém quanh năm, gia đình nọ phải có “sáng kiến” là làm một bát ớt đỏ để giữa mâm. Ông bố “cầm cái thìa xúc, hắt nhẹ vào từng bát con, động tác rất nhanh”. Lũ con ăn cay xè, nước mắt nước mũ chảy ròng ròng. Đọc mà thấy thương quá một thời gian khó.
          Nhân vật trong truyện ngắn Du An toàn những người có nhiều góc cạnh nhưng rất đáng yêu. Tôi rất thích truyện “Tỉnh rượu” của anh. Anh vẽ nhân vật Lung của mình như thế này “Nhìn mặt gã rất khó đoán tuổi. Nó cứ phù phù, bì bì. Hai mắt như bị ong đốt, cúp cùm cụp xuống, nhìn người hay không nhìn gì cả chẳng biết đằng nào mà lần. Nói ngoa một tí thì mi trên mi dưới ngăn cách bằng một sợi chỉ. Nói chẳng yêu chẳng ghét thì mắt bé quá, chẳng đủ nhìn, chắc chỉ nhìn được mỗi vợ”. Lão là con người lao động, chịu thương chịu khó.  “Làm xe trâu mệt tí nhưng có tiền. Tối mù về đếm tiền, các đồng ướt rượt, dính vào nhau. Bàn tay chai sần không được, phải lấy móng khẽ bóc từng tờ, đặt ra bên cạnh. Khổ, người ta trả, vo luôn vào túi. Mồ hôi chảy đến ướt hết đũng quần mới về nhà”. Bề ngoài lão như thế, nghề nghiệp như thế, ấy vậy mà lão sống với dân với làng thật nghĩa tình, đầy trách nhiệm. Công to việc lớn nhà người cứ như công việc của nhà mình. Xem Du An tả cảnh lão luộc gà, chặt thịt gà, phục vụ đám cưới thì biết. Rồi lão bắt trộm, nhận thằng trộm và bạn của nó là những thằng nghiện đi phụ giúp xe trâu cho mình. Làm “ông chủ” mà lão vẫn hùng hục bốc xúc như ba thằng làm thuê cùng xe, lại còn phải luôn để mắt tới chúng nó nữa chứ. Lão sợ chúng hút hít đâu đó. Lão “sợ bọn này vào nhà người ta nhanh tay, nhanh mắt. Bình thường đấy là trách nhiệm của toàn xã hội nhưng gã đang là ông chủ. Tốt đẹp khen chả cần, còn tiếng xấu gã chịu”. Rất trách nhiệm. Rất tự giác. Lão muốn cải tạo lũ nghiện, hướng thiện cho chúng. Chủ như lão mà buồn cười. Đúng là rước tội, rước nợ vào thân. Rồi chủ tớ nhà lão giúp bà cụ chặt cây xoan vô tư. Rồi thì giúp công an bắt vụ án ma túy. Tật xấu của lão là nghiện rượu. Ấy thế mà sau cái vụ cùng côn an xã theo dõi, phá án vụ buôn bán ma túy thì lão lại cai được rượu. Nhịn rượu để phá án được cả giấy khen của tỉnh. Vợ lão cũng bất ngờ về lão qua cái vụ bắt ma túy và cai rượu này.
          Du An còn viết về mối quan hệ trong gia đình với những cãi cọ, khúc mắc cùng bao lo toan thường nhật của các thành viên; về mối quan hệ hàng xóm, về lân bang, phố phường. Những con người ngày nào cũng giáp mặt, bao nhiêu chuyện phát sinh, tưởng chừng như mâu thuẫn, như “quân thù, quân hằn” ấy vậy mà họ thật đáng yêu. “Gà trong phố” là một truyện như thế. Tiếng chửi của hàng xóm vì phân gà thối bẩn, chuyện ông tổ trưởng dân phố để trâu ỉa bãi phân to ngay cổng một nhà dân dẫn đến xung đột cãi cọ nhau, rồi chuyện cơ quan...tưởng như sẽ chẳng ai nhìn mặt ai nhưng cuối cùng họ đều lo cho nhau, đều có ý thức xây dựng xóm phố văn hóa và cái kết câu chuyện thật hay, rất nhẹ nhàng mà lại ý nghĩa, chào “một câu rất Việt Nam: Bác à”. Những nhân vật trong truyện ngắn của Du An đều đáng yêu và ấn tượng như thế.
          Truyện “Lông gà và lá chuối” được lấy thành tên của cả tập truyện kể về mối tình của cô Mận với anh chàng Tỉ. Một mối tình rất hồn nhiên, ngờ nghệch của cô Mận quá lứa nhỡ thì với chàng Mận tinh quái, ma mãnh. Để rồi Mận có thai, một mình đẻ con, nuôi con. Nguồn sống của mẹ con chị là những buồng chuối và đàn gà. Thế rồi, ấm tổ, Tỉ lại đến tỉ tê, thẽ thọt “mình có hai đứa con. Mình sẽ phải làm gì lớn lớn một chút em ạ... Anh định sắm một bộ xe trâu. Xe độ dăm triệu, trâu ngót chục triệu”. Tin lời Tỉ, Mận đưa tất 8 triệu tiền bán chuối, bán gà để Tỉ “hút xa, còn một làn khói ô tô nhờ nhờ quẩn lại”. Ngỡ tưởng được chồng, sống với nhau, nào ngờ kẻ ấy đã cuỗm sạch rồi đi. Mận điên tiết vung dao phay chém tan bụi chuối, hàng rào dâm bụt. “Từng đám lông gà bay lên, chỉ còn mấy mảnh lá chuối khô treo treo như lá bùa vàng ố”. Một kết thúc thật buồn vì lòng tin gửi nhầm chỗ.
          Ngôn ngữ truyện của Du an hoạt, câu văn ngắn, chuyển cảnh nhanh. Có cảnh anh chỉ tả bằng một câu văn ngắn rất hình ảnh nên người đọc vẫn cảm nhận được. Những đoạn làm tình là như thế. Kín đáo, ý nhị nhưng vẫn rất gợi. Trong 17 truyện có truyện “Cam tròn” viết khá độc đáo. Lời truyện như ý thơ. Cảnh tình lớp lang như phim. Đọc du dương và phải ngẫm nghĩ xem ý tứ của anh đằng sau con chữ. Điệp ngữ “nàng học vừa đủ chữ” ngay từ câu đầu tiên của truyện và lặp đi lặp lại mấy lần qua các đoạn tiếp theo. “Mẹ nàng bán cam” cũng thế. Mẹ dạy chị chữ. Bắt đầu là chữ C. Phải chăng đó là “nghiệp bán cam” có từ đời bà chị, qua mẹ chị, rồi đến chị? Đây là một đoạn trong truyện của anh: “Mẹ nàng vẫn bán cam. Quả ủng con gái ở nhà. Quả quắt ngâm suối phồng phồng bợt bạt. Mẹ nàng ngồi gốc muỗm, ngoan. Không thể nói một người ăn hai người vui, ăn vào hư như con ngựa. Ăn cam thì ngoan, cánh rừng nghiêng bóng cơ mà. Ăn cam thì vui, váy áo vẫy đâu mà khói xăng chậm lại kia mà”. Đại loại là như thế. Cứ miên man, mơ màng vừa đọc vừa ngẫm nghĩ. Có lẽ truyện này là một bài thơ dạng hậu hiện đại chăng? Người đọc chắc chắn sẽ phải suy ngẫm tìm hiểu ý tứ sau từng con chữ của anh.
           “Lông gà và lá chuối” là tập truyện ngắn thành công của Du An. Dư âm tập truyện còn đọng lại mãi trong tôi. Anh đã dắt tôi đi, đưa tôi về thăm vùng Tây Bắc, với đồng bào nơi đây và những giáo viên ngày đêm cắm bản, cõng chữ lên rừng; với những con người thật gần gũi, đầy tính cách xung quanh ta, đâu đó thường ngày. Cốt truyện không cầu kỳ, hành văn gọn ghẽ, câu văn ngắn, cách viết dí dỏm, chuyển cảnh nhanh, nhiều chi tiết sống động đã hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Đọc truyện của anh, ta thấy yêu các nhân vật của anh và yêu cuộc sống này hơn.
Tôi chưa gặp, chưa biết nhiều về Du An. Có chăng chỉ biết anh trên Facebook và những truyện, thơ anh đăng tải trên các báo. Nhưng trong tập “Lông gà và lá chuối” này anh đã đưa tôi đi trong mê mải chuyện tình, chuyện đời để tôi có cảm giác như đã được thân thiết với anh tự bao giờ. Xin chúc mừng Du An và mong chờ những tập truyện mới hay hơn nữa của anh.

2 nhận xét:

  1. BD - 11 - 201408:54 9/11/14

    Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.

    Trả lờiXóa
  2. Phạm Đình Thi - Chủ nhiệm CLB thơ đường ĐB09:31 27/12/14

    Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.

    Trả lờiXóa