Tang lễ là một nghi thức tín
ngưỡng bản địa thể hiện quan hệ đạo đức và thuần phong mỹ tục trong văn hóa ứng
xử giữa người sống và người chết. “Sống dầu đèn, chết kèn trống”. Đám ma mà
không có phường bát âm, không kèn không trống thì thật là bất hạnh. Chết mà
chết chui, chết lủi, chết đường, chết chợ. Âm nhạc tang lễ là phương tiện không
thể thiếu được để thể hiện chữ hiếu đặc biệt tiễn đưa người quá cố về nơi an
nghỉ cuối cùng. Âm nhạc tham gia vào trong quá trình cử hành tang lễ, từ khi
nhập quan cho tới khi hạ huyệt. Bắt đầu là trống báo ba hồi chín tiếng cho cả
làng biết trong làng vừa có người chết. Sau đó là là kèn (khi phát tang). Cứ
thế trống kèn đan xen nhau thì thùm, réo rắt ai oán tiếc thương.
Tổ chức dàn
nhạc, bài bản và nguyên tắc sử dụng tùy theo địa phương mà quy ước khác nhau
nhưng ngoài giai điệu của những bài khóc, có hai nhạc cụ chính là trống và kèn.
Trống sử dụng trong đám tang gồm có hai chiếc: một trống cái và một trống con. Tiếng
trống giữ nhịp cho cả phường nhạc, giữ nhịp cho lúc đưa quan trên đường. Kèn
cũng chủ yếu có hai loại: kèn tiểu (âm khu cao) tiếng kêu the thé, xé ruột xé
gan thường gọi thẳng là kèn đám ma và kèn đại (thường gọi là kèn pha, âm khu
hơi trầm, nghe thê lương, thảm thiết). Hai kèn này như giọng nữ, giọng nam,
giọng già, giọng trẻ hòa vào nhau than khóc. Tương đồng với nó là nhị (réo rắt,
xót xa), hồ (trầm đục ảo não, bi ai). Đêm hôm khuya khoắt mà nghe tiếng kèn,
tiếng nhị, tiếng hồ cất lên thì không ai cầm lòng thương tiếc được. Ngoài trống
kèn, nhị, hồ ra còn có đàn bầu, đàn tam và sáo, có chiêng và phách chấp lệnh.
Những nhạc cụ dân tộc này cộng hưởng, hòa âm với nhau theo những làn điệu nhà
đám làm tăng thêm sự đau buồn, tiếc thương người đã mất.