(Thơ Đỗ Xuân Thu - Hội Liên hiệp VHNT Phú Thọ ấn hành tháng 7/2015)
Trương Thị Thương Huyền
(Hội VHNT Hải Dương)
Không
nhiều lời, không nhiều hình ảnh và câu từ chau chuốt, không có chỗ cho cả những
gì màu mè, gượng gạo, “Tổ quốc ở Trường Sa” tập hợp tất cả những gì giản dị
nhất, dễ gần nhất trong giọng thơ Đỗ Xuân Thu.
35 bài thơ gọn gàng và xinh xắn -
35 kỷ niệm (có lẽ là đẹp nhất) trong hải trình thăm Trường Sa găm lại trong
trái tim của con người đa tình Đỗ Xuân Thu đã đủ để “dựng” nên tập thơ này. Số lượng không nhiều, con chữ không lắm nhưng
tình ý gửi gắm trong “Tổ quốc ở Trường Sa” lại dạt dào như sóng biển. Và cái
mảnh đất thiếu đủ thứ cho nhu cầu của cuộc sống và chỉ thừa nắng gió
và muối mặn ấy đã neo vào thơ Đỗ Xuân Thu bằng những gì đời thường nhất, nói
cách khác, trong hải trình đến “quần đảo bão tố” này, Trường Sa được Đỗ Xuân
Thu tái hiện bằng cảm xúc chân thành nhất của trái tim một người viết.
Đọc “Tổ quốc ở Trường Sa”, điều
đầu tiên người đọc nhận ra là mỗi hòn đảo của quần đảo thân yêu của Tổ
quốc hiện lên bằng xương, bằng thịt, bằng nắng, bằng gió, bằng gian khổ, khó
khăn và bằng cả lãng mạn bay bổng. Trường Sa trong thơ Đỗ Xuân Thu đủ địa
danh, hình hài, đủ góc nhìn ấn tượng như Song Tử, Sinh Tồn, Len Đao, Gạc
Ma, Đá Lớn B, Đá Đông… với những hình ảnh riêng có của mảnh đất này: “Cầu
vồng trên đảo Đá Đông”, “Tiếng ru trưa ở đảo Sinh Tồn”, “Bên cột mốc chủ
quyền”, “Tưởng niệm liệt sĩ Gạc Ma”, “Đền thờ Bác Hồ ở đảo Trường Sa”, “Bia
liệt sĩ trên đảo Sinh Tồn”, “Cột mốc ở Trường Sa”, “Nước ngọt ở Trường Sa”…
Khác với những hoạt động trong
đất liền, những hình ảnh trên mảnh đất giữa vời vợi trùng khơi này dù giản dị
nhưng lại đủ độ “độc” khiến người đọc xúc động, nhất là giữa lúc cuộc
sống của quân dân trên các đảo nổi, đảo chìm của Trường Sa đang trở
thành đề tài “nóng’ trong hành trình khám phá của những người ưa
tìm hiểu. Và “Tổ quốc ở Trường Sa” phần nào đáp ứng được câu trả
lời.
Vẫn là những chuyện thiếu
nước, thiếu rau xanh. Vẫn
là những chuyện lời ru, điệu hát… Và cũng vẫn là những chuyện nhớ
thương, thương nhớ của những người ở hai đầu sóng biển… Tất tật tập
trung ở những chữ “Vẫn” ấy để khẳng định, chỉ cần người viết thiếu
kinh nghiệm thì việc viết về Trường Sa sẽ trở thành nhàm chán khi
lặp lại bao điều những người đi trước đã viết. Nhưng Xuân Thu đã không
rơi vào trạng thái ấy. Xuân Thu đã không để cảm xúc của mình bó hẹp
trong mỗi hòn đảo, mỗi vuông biển mà bao đồng nghiệp đi qua đã từng “đánh bắt”. Như một ngư dân lầm lũi vượt sóng
tìm luồng cá mới, với từng điều giản dị của mảnh đất thừa gió
mặn và muối biển, Xuân Thu đã để nó “ngấm” và bật thành con chữ
theo cách riêng của “Chõe bò” (một nhân vật trong truyện ngắn đã trở thành biệt danh
của anh). Cái khó khăn, vất
vả tứ mùa giữa tứ bề là sóng gió của Trường Sa đi vào thơ Xuân Thu
đằm nét duyên riêng:
“Giữa biển Đông trưa tháng
sáu chang chang
Gió trốn biệt, biển mệt
nhoài nằm thở
Sóng lấp lóa, nắng như
đổ lửa
Đảo nổi, đảo chìm như
luộc, như sôi”
(Tiếng ru trưa ở đảo Sinh Tồn)
Hay chuyện thiếu nước ngọt giữa
đại dương mênh mông của những người lính đảo không phải đến Xuân Thu mới nói,
mới viết, nhưng cái giọng thơ “tưng tửng” của anh lại khiến người đọc cứ phải
rỉ rả, cứ phải rưng rưng:
“Một dãy can hai
mươi lít xếp hàng
Rất chỉnh tề, ngay
ngắn
Trên mỗi chiếc vỏ
nhựa trắng
Là tên từng chiến
sĩ đảo này…
… Mỗi chiến sĩ hai
mươi lít… năm ngày
Tắm rửa, giặt giũ,
tưới cây…”
(Nước ngọt ở Trường Sa)
Hoặc cũng viết về trăng
Trường Sa, hình ảnh “Trăng dưới
biển, trăng trên trời/ Trường Sa ở giữa ngời ngời trong nhau…” cũng
là một trong những hình ảnh lạ, một phát hiện rất riêng của Xuân Thu.
Ai đã đến Trường Sa, đã
từng chứng kiến đảo đẹp ảo huyền giữa bốn bề “trăng áp tải” có lẽ
mới thấm được hình ảnh ấy.
Vượt qua những góc nhìn quen
thuộc của bao đồng nghiệp đến Trường Sa khi cùng viết về những ngôi
làng trên biển, những tiếng gà trưa, với cuộc sống bình yên như mỗi
làng quê của đảo, với hình ảnh những người lính Trường Sa hiên ngang
trong bão tố giữ gìn chủ quyền biển đảo quê hương, Trường Sa trong
“mắt nhìn” của Đỗ Xuân Thu thật lãng mạn và khá độc đáo.
Ít đề cập đến những khó
khăn, vất vả, chỉ thấy ngồn ngộn trong 35 bài thơ là những hình ảnh
đẹp, đầy chất lạc quan. Đó là hình ảnh “cầu vồng bảy sắc lung linh
như mơ” giữa “biển trời xanh đến bất ngờ” của đảo Đá Đông; là hình
ảnh bình minh đội biển lên tràn chất thơ giữa biển:
“Em đã thấy đất, trời hôn
nhau chưa
Kỳ lạ lắm sớm mai này ở
biển
Chân trời xa đột nhiên
hiển hiện
Nụ môi hồng nhô lên, nhô
lên…
Mặt biển bồng bềnh chao
nghiêng, chao nghiêng
Sóng cuốn nhau lăn về bờ
cát
Biển thì thầm lời yêu
dào dạt
Mặt trời lên đỏ thắm
vành môi…”
(Nụ hôn biển)
Bằng góc nhìn của một người
vốn hóm hỉnh và có khả năng quan sát khá tinh tế, tất cả những “sự
kiện”, “hiện tượng” trong hải trình đến với Trường Sa trở thành “đặc
sản” trong ‘Tổ quốc ở Trường Sa”, mang hơi thở riêng, hồn vía riêng
của biển của Trường Sa trong trái tim thi sĩ:
“Bất ngờ nhất
đêm văn nghệ Trường Sa
Mười em nhỏ, tuổi
từ ba đến tám
… Vừa biểu diễn
vừa nhìn con châu chấu
Đang chập choạng
trước ánh đèn sâu khấu
Bài hát vừa
xong, em vồ nó và cười…”
(Nghệ sĩ nhí và con châu chấu…)
Và ngộ nghĩnh tới bật cười
khi chứng kiến một trận cầu nảy lửa giữa không gian “ rất hiếm cỏ”
của cư dân trên đảo:
“Này cú phạt sút xa
Quả này mười
một mét
Đá nhẹ thôi cu
Tít
Kẻo bóng phọt ra
khơi
…Luật lệ thoang
thoáng thôi
Không đủ quân cứ
đá
Lính, trẻ con ồn
ã
Cũng cãi nhau ra
trò…”
(Đá bóng ở đảo)
Nhưng điều khiến người đọc
xúc động nhất khi đọc “Tổ quốc ở Trường Sa” của Đỗ Xuân Thu chính
là khi nhận ra cái chung, cái riêng hòa quyện. Có lẽ, khái niệm Tổ
quốc trong tập thơ không chỉ là đất nước Việt Nam, không chỉ là mảnh
đất vời vợi với biển với trời mà còn cụ thể hơn, hiện hữu hơn đó
chính là mảnh đất cội nguồn “Đất Tổ”.
Viết về Trường Sa nhiều
người viết. Yêu Trường Sa nhiều người yêu. Thổn thức, đau đáu về
Trường Sa thì nhiều, nhiều lắm những con người đã nói. Nhưng Trường
Sa trong Đất Tổ và Đất Tổ với Trường Sa thì hình như tôi mới chỉ
gặp ở tập thơ này.
Phú Thọ có hát Xoan là di sản phi vật thể đại
diện của nhân loại và thơ Xuân Thu đã khéo léo quảng bá, chuyển tải trong những
vần thơ viết ở Trường Sa. Ta thấy “xin huê đố chữ” được anh khắc họa rất Trường
Sa và rất hay:
“Giữa Trường Sa nghe em
hát câu xoan
Say sưa quá ngỡ mình đang
đất Tổ
Không có trống thì lấy
thùng mà vỗ
Đũa cùng que gõ nhịp
phách tưng bừng…
…Em đố hoa gì trên đảo nở
về đêm?
Quả như cái chuông đung đưa
trong gió
Lính đảo cười “hoa bàng
vuông đó”
“Tềnh là tềnh”… tay mắt
xoắn vào nhau
Em đố chữ gì dài
nhưng chẳng xa đâu
Đảo nổi, đảo chìm
đẹp trang thơ Tổ quốc
Lính đảo cười dang
tay giơ phía trước
Chữ Trường Sa đang
ở trái tim này”
(Hát xoan ở
Trường Sa)
Phú Thọ còn nổi tiếng với làng
cười Văn Lang, với thơ Bút Tre. Mối ân tình của vùng quê phóng khoáng ấy
theo Xuân Thu đến Trường Sa lộng gió, tiếp thêm sức mạnh cho những
chàng lính biển. Những câu thơ này mới thấy con người Phú Thọ yêu đời, phóng
túng, bản lĩnh biết bao nhiêu:
“Chuyện ra dưới biển trên
trời
Vỗ đùi đánh đét, gặp
người Văn Lang
Ở quê nói phét cả làng
Ra đây giữa biển lại càng
vung tay
Bút Tre càng đọc, càng
say
Dìm sóng biển xuống, kéo
ngày dài thêm
Lính đảo cười ngả cười
nghiêng…”
(Thơ
Bút Tre ở Trường Sa)
Có lẽ
còn nhiều, nhiều lắm những điều muốn nói khi đọc tập thơ này. Dẫu
có bấn loạn bởi rất nhiều điều định nói thì vẫn phải khẳng định
“Tổ quốc ở Trường Sa” là trái tim, là tấm lòng, là ân tình của Xuân
Thu đối với mảnh đất thiêng của dân tộc, cái mảnh đất mà khi đến đó,
người ta sẽ chợt nhận ra mình thật bé nhỏ trước đại dương và bao
bộn bề của cuộc sống bon chen sẽ trở thành vô nghĩa; Cái mảnh đất
dù không quá lớn nhưng đủ độ nóng để đo sự “vĩ đại” thật sự của
mỗi con người!
Đọc
“Tổ quốc ở Trường Sa” thêm một lần thấy hồn dân tộc rì rầm ngân nga
trong tiếng sóng!
T.T.T.H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét