Chúng tôi có mặt ở thác Phú Cường sau gần một giờ chạy xe máy xuất phát
từ thành phố Pleiku. Đây là một địa điểm du lịch khá lý tưởng ở Gia Lai với
ngọn thác cao hơn 40 mét với cột nước trắng xóa dội từ trên cao xuống dòng suối
bên một bãi đá tự nhiên rất đẹp. Và đây cũng là nơi nhà thơ Đỗ Xuân Thu đã tìm
ra một loài hoa mà theo như anh kể, nó tựa như chiếc lá diêu bông của thi sĩ
Hoàng Cầm ngày trước vậy.
Thì đây, bên dòng thác đang ầm ầm trút nước kia, chúng tôi ngồi trên
những tảng đá to và nhẵn dưới tán cây sung cổ thụ, trên tay là tập thơ thứ sáu
vừa mới ra lò của anh. Chả là cách đây mấy hôm, trong lúc tôi đang chìm trong
giấc ngủ muộn khi mà cơn mưa ngoài trời đang quất te tua những bụi chuối bên
nhà thì bỗng choàng tỉnh giấc bởi tiếng chuông điện thoại. Vừa mắt nhắm mắt mở,
tôi vừa cằn nhằn không biết thằng cha nào lại điện thoại vào giờ này. Phía bên
kia đầu dây là tiếng Xuân Thu thì thầm khe khẽ như sợ ai nghe thấy nhưng vẫn
không dấu được nỗi vui mừng, bởi nghe…run lắm. Tiếng được tiếng mất, tôi cứ ậm
ừ cho qua chuyện rồi gác máy và kéo chăn trùm đầu ngủ tiếp. Đến trưa hôm sau
tôi mới chợt nhớ tới cú điện thoại này. Tức thì gọi lại cho anh và mới vỡ lẽ.
Thì ra anh gọi điện khoe tập thơ “Bờ tre cuốc gọi” đã in xong và anh đã gửi cho
chúng tôi, tức là 5 thằng trong cái nhóm “ngũ quỷ” mà có dịp tôi sẽ giới thiệu
đầy đủ từng tên một. Và cái điều quan trọng là trong tập thơ này có bài Hoa nhã
my mà anh viết trong một lần anh đã đến thác Phú Cường vào dịp hè năm ngoái. Vì
thế anh điện nhờ tôi báo tin cho 4 tên kia và phải kéo chúng tới ngọn thác đó
cùng với tập thơ chụp cho anh một kiểu hình làm kỷ niệm. Ôi giời bác Xuân Thu
ơi, có thế thôi mà nửa đêm về sáng bác phải đánh thức em dậy, có gì thì để sớm
mai sáng sủa đàng hoàng báo tin cho nó dõng dạc chững chạc có hơn không, sao
lại phải nhẹ nhàng khẽ khàng nửa đêm cứ như là đi buôn bạc giả thế bác. Ấy
không được chú ạ, không thể kìm hãm được nên cứ phải “sướng” ngay cho nó…sướng!
Xuân Thu là thế. Cứ có cái gì mới, cái gì hay là ngay lập tức điện thoại hoặc
nhắn tin báo liền. Nửa đêm cũng điện, sáng sớm tinh mơ đã nhắn tin. Chăm vào
blog thế hèn gì cái tên Xuân Thu hay Chõe bò vào trang nào cũng thấy.
Đỗ Xuân Thu viết như “lên đồng” (chữ của nhà thơ Văn Công Hùng). Chỉ cần
nhìn vào phần giới thiệu tác phẩm của anh trên tập thơ cũng thấy sức viết của
anh đáng nể đến mức nào. Trong vòng 14 năm từ 1998 đến 2012 anh cho ra lò 14
đầu sách. Thơ có, truyện ngắn có, rồi cả tiểu thuyết nữa. Như thế là trung bình
cứ 1 năm anh có 1 đầu sách. Đấy là chưa kể những bài báo, bút ký, ghi chép đăng
rải rác trên các báo, tạp chí sau mỗi chuyến đi về của anh. Xuân Thu thường
viết về đêm (đấy là tôi đoán thê) bởi nhớ lại cái đận hè năm ngoái, sau khi đi
thác Phú Cường về, anh ghé ngủ lại ở nhà tôi. Chiều bữa đó có 4 anh em quất gọn
1 chai Chivas, ai cũng mèm vì rượu ngon và vì đi về mệt nên đặt lưng là ngáy.
Thế mà nửa đêm anh vẫn dậy kỳ cạnh gõ phím và lay tôi dậy cùng để hỏi chuyện về
hoa nhã my. Câu chuyện Sự tích hoa nhã my ra đời từ đêm đó, và cũng từ đó tôi
quen với việc “bị” nghe điện thoại của anh lúc nửa đêm khi mà anh vừa gõ xong
một cái gì đấy tới tận bây giờ. Ngay cái tập thơ “Bờ tre cuốc gọi” mà chúng tôi
đang cầm trên tay lúc này đây cũng là tập thơ mà Xuân Thu đã đem cái sự viết
đêm vào trong đó. Ấy là những giấc mơ. Những giấc mơ về một tình người, một
tình yêu vĩnh cửu. Những giấc mơ về cái nhân tình thế thái mênh mông mà hiện
hữu, thực mà như vô. Ngay cả cái chuyện anh cố tình sắp xếp để bài “Nóc nhà Tổ
quốc” lên trang đầu của tập thơ cũng không thể giấu được cái ham muốn, cái khát
vọng đến đắm say của anh trong một tình yêu có thực. Không hề nói quá nếu bảo
rằng Đỗ Xuân Thu là con người “đa tình”. Anh có thể làm bất cứ ai khi tiếp xúc
với anh đều có thể nhận thấy ở anh có một điều gì đấy thật gần, thật thân quen.
Anh cứ miên man trong cái tình người
mênh mang mà gần gụi như thế; anh cứ đam mê đến đắm say trong những câu
thơ về tình yêu, về cuộc đời này qua cái lăng kính của một kẻ đa tình hòng gom
hết những con chữ về mình để thỏa cái nỗi niềm riêng trong cái chung của thế
sự, mà ngỡ buông ra là anh có thể gục ngã không thể nào gượng nổi. Chả thế mà
tuy xa nhau là vậy nhưng lòng thì không cách, dăm ba bữa là anh lại hỏi thăm
viết ra sao rồi, có gì mới không, hoặc đơn giản chỉ là khoe một cái gì đó anh
vừa mới viết xong.
Con đường để Đỗ Xuân Thu đến với văn chương không hề dễ dàng. Nhưng hình
như chính nhờ những cái không dễ đó mà để bây giờ anh đã tìm thấy bến đỗ của
mình. Những con chữ đã neo đậu anh, níu kéo anh, thậm chí ràng buộc anh để ngấm
vào anh trong từng trang viết. Có thể nhận thấy rõ ở trong đó là hơi thở của
từng viên đất, của dòng nước ngọt từ con sông Lô quê anh chở nặng phù sa cho
cây lúa thêm xanh, cho đàn cò tung cánh…rồi điệu hát xoan, hát ghẹo miền trung
du nơi anh sinh sống cũng đã lẫn vào trong thơ anh để nặng thêm tình thương yêu
ruột thịt. Cái chất trữ tình của dân ca vùng trung du Bắc bộ cùng với sự ưu tư
của chàng thi sĩ đa tình nặng lòng với thời cuộc đã làm nên một Xuân Thu như
thế. Tuy còn chút gì đấy của vài con chữ chưa được sáng và đẹp, còn mang nặng
tính “gia trưởng” của thể thơ vần điệu, tức là chưa vượt qua được cái ‘phá
cách” như nhiều thể loại thơ hiện nay, nhưng ý tứ và tình yêu của Xuân Thu gửi
vào trong đó thì vẫn luênh loang tựa vầng trăng mười sáu bên ngọn thác Phú
Cường ngày nào, nơi anh đã gửi hồn ở đó cho một tình yêu nhã my bất tận.
Gia Lai
mùa mưa 2012
Nguyễn Minh Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét